Friday, February 19, 2010

Tản Mạn: Những ngày ở quê

Ngày..tháng...năm...

Khoảng mười một giờ trưa, tụi mình đi thăm anh Quế. Tĩnh chở Thy, Sơn chở My và Hồ chở mình. Cứ để cho phe nẫu chạy trước. Hai chị em mình tà tà theo sau vừa chạy vừa chụp hình ngắm cảnh. Anh Quế đang ở Đức Bùi. Nhà anh ở trên khu đất ngày xưa của ông bà ngoại. Mẹ và dì Thiện có cả một thời niên thiếu nơi đây. Năm mười chín mẹ lấy chồng theo bố vào Đà Lạt. Dì theo chồng dọn về Hương Sơn. Hương Sơn nổi tiếng xinh đẹp mà Bà Huyện Thanh Quan không ngớt ca tụng đây rồi! Thật hạnh phúc làm sao mình đã được đến thăm một địa danh quen thuộc của quê mình.

Từ Hương Sơn về Đức Thọ chạy xe gắn máy khoảng gần một tiếng. Anh Quế ít thay đổi dù đã hai mươi năm mình không gặp. Anh vừa xây được một ngôi nhà gạch nhỏ, phòng khách trống trơn, bàn thờ đặt trên cao khi thắp nhang phải bắc ghế mới cắm nhang được. Niềm vui có được căn nhà mình tự tay xây lên, cọng thêm niềm vui đoàn tụ khiến anh vui vẻ, nói liên miên. Đi loanh quanh nhà, đất vườn không có bao nhiêu, ruộng thì nhỏ hẹp. Trong chuồng trâu, hai chú trâu hiền lành đang giương đôi mắt to ngơ ngác nhìn mông lung. Trước cửa chuồng trâu, một đụn rơm dựa lưng sát hai gốc đu đủ lèo tèo vài quả. Nghe “giọt đắng” dâng dâng. Mấy chục năm trong xã hội chủ nghĩa, người dân quê cũng vẫn với con trâu, cái cày, ông anh mình cuộc sống vẫn eo hẹp, khó khăn...

Rất muốn ở lâu thêm nhưng thời gian không cho phép. Anh Quế cùng với tụi mình đi qua thăm bên nội. Gia đình bên nội mình ở Đức Yên, chỉ cách Đức Bùi quê ngoại môt chặng đường ngắn. Họ nội mình cũng không đông mấy. Bà con túm tụm bên nhau. Mình có bốn người cô đều đã qua đời. Sau năm bảy lăm, O Hai có vào thăm bố mình. Về lại quê được vài năm O chết. Dù là lần đầu tiên được gặp anh chị em họ, mình cũng có cảm tưởng như đã gặp và thân nhau lâu lắm. Lần về thăm quê này mình đã không thể đến nhà từ đường thắp nhang vì người giữ chìa khóa đi xa chưa về. Đến nhà anh Như, mấy chị em thắp nhang cho ông bà nội và các O. Ngôi nhà anh chị Như đang ở là đất đai của ông bà nội ngày xưa. Bố ở trong Nam, ở lại đây toàn con gái nên việc nhang khói thờ phụng do cháu trai phụ trách. Sau khi anh Lệ mất đi, anh Như lo việc hương hỏa ông bà. Những ngày giỗ chạp thì bà con quy tụ nơi đây. Còn nhà từ đường thì thờ tất cả các chi nhánh của giòng họ. Từ đường chỉ mở cửa vào những ngày Tết, những ngày giỗ của ông bà.

Tụi mình ra thăm vườn. Không như ở nhà dì, mấy cây khế ngọt ở đây trái thật nhiều, có những nhánh trái đụng đến đất. Chỉ mới nhìn thấy là tiết tâm linh. Anh chị bảo tụi mình muốn hái bao nhiêu cũng được. Tuy thích nhưng tụi mình cũng chỉ cầm vài trái mang về vì mình biết đó cũng là nguồn thu nhập của họ.

Từ giã gia đình họ nội với niềm luyến lưu của anh chị Như,chị Ngũ, các cháu An, Toàn Hương và với nước mắt vắn dài của chị Huệ vợ anh Lệ. Tội nghiệp chị Huệ chồng chết trẻ, đứa con độc nhất cũng qua đời...

Trước khi giã từ Đức Yên mình nhờ Hồ chở đi thăm con đê làng ngày xưa bố thường theo bạn thả diều, đánh đáo... Mình thầm thì với Bố: “ Bố ơi con đê ngày nào của bố cũng đã đổi thay, bờ đê đắp đất đã được xây bằng đá, cứng chắc hơn hơn nhưng có lẽ bớt phần thơ mộng. Bố sẽ ít gặp lại những cô gái quê, những chàng trai cày ruộng với chân trần quê mùa mộc mạc mà bố sẽ thấy những chàng trai gò mình trên chiếc xe gắn máy, phóng ào ào... Quê bố cũng đã trở mình để theo kịp những tiến triển ngày nay.

Về thăm ngôi nhà thờ Đức Yên, nhà thờ cổ nhất của quê bố cũng đã được sửa sang lại. Đứng lặng yên nhìn chiếc máng cỏ nơi chúa hài đồng ra đời. Con như nhìn thấy bố thuở xưa sá́́́nh vai cùng cô gái họ đạo làng Cầu Khóng đến lễ nhà thờ... mà chuyện tình khác tôn giáo ở thuở ấy ít bao giờ có kết quả, phải không bố? Có phải vì vậy mà chàng con trai độc nhất của nội đã bỏ quê ra đi? Nhiều khi con thắc mắc tự nghĩ. Chuyến xuôi Nam của bố có thể do mộng tưởng thanh niên mơ đi đến một khung trời mới...và cũng có thể do tình duyên không trọn. Có phải vậy không bố của con?”

Rời quê nội, ngoại mình còn được Hồ chở đi thăm tượng của Thái Thượng Lãng Ông, người danh y của xứ Nghệ Tĩnh xưa...Tiếc quá, mình không có thời gian đi thăm khu di tích của thi hào Nguyễn Du. .. Thôi hẹn dịp khác vậy...Trên đường về, phương tây mặt trời chiếu những tia nắng đỏ quạnh xuống dòng sông Ngàn Phố. Gió từ biên giới Lào lồng lộng thổi về thổi tung tóc rối. Hai chị em hát to trong gió chiều những bài hát ngợi ca quê hương, thâu ngắn đoạn đường về. Về đến nhà mâm cơm tối đã dọn sẵn với đông đủ anh em, con cháu....vẫn không thiếu món “ gà loọc” của dì. Tội nghiệp đàn gà của dì đã bị hao hụt đi vì bọn mình.

Ngày … tháng …năm

Mới vài ngày trên quê hương mà hai nhỏ đã thấm mệt. Thọ và Hồ rủ lên suối nước nóng nhưng không ai chịu đi. Để Thy, My ở nhà ngủ, Hồ rủ mình đi thăm thác Xài Phố. Đường đến thác tuy nhỏ nhưng cũng được tráng nhựa rất dễ đi, nghe nói thỉnh thoảng cũng có người buôn lậu đi qua ngõ biên giới này. Từ nhà dì đến đây cũng rất gần, có lẽ chỉ mười lăm cây số. Gởi xe gắn máy trong một ngôi nhà nhỏ ngoài đường lộ, tụi mình lội bộ vào thăm thác. Đi băng qua những khu vườn rau, rồi đến một khoảng đường ngắn với nhiều đá tảng là đến ngay dưới chân thác. Thác rất nhỏ, chỉ bằng một dòng thác trong dãy thác Datana ở Đà Lạt của mình. Khung cảnh ở đây khá thơ mộng. Hai chị em lội qua suối đá, nhúng chân xuống dòng nước mát lạnh, tung nước lên cao rồi cười vang cả khoảng suối vắng. Hồ thật vui vì lần đầu tiên biết sử dụng máy chụp hình Digital. Anh chàng cười hớn hở nói:

- Dễ ghê há chị? Giờ ni em có thể gíup chị bấm máy rồi.

Hồ thật hồn nhiên như con nít. Anh chàng bắt mình ngồi đủ kiểu để chụp. Khá trưa tụi mình mới ra khỏi thác. Dòng thác nhỏ, dễ thương sẽ để lại trong mình thật nhiều kỷ niệm. Ra đến đường cái, dừng chân trước “chiếc cầu biên giới” tụi mình ngần ngừ tính vượt qua cầu thám hiểm vùng đất mới nhưng khi đọc nội dung chiếc biển cắm trước cầu với thật nhiều “cấm kỵ” làm mình đâm hoảng... Thôi chả dám thử lửa. Hai chị em chỉ đứng bên này cầu hát ngêu ngao bài ca của một nhạc sĩ tiền tiến “Dừng đây soi bóng bên dòng nước biếc...bên vùng biên giới em buồn ngẩn ngơ” Mà thật ...con sông buồn, chiếc cầu cũ kỹ rêu phong...cũng buồn. Nhà mình... thì ở xa lơ lắc... mình cũng mang một nỗi buồn, có lẽ cũng buồn như nỗi buồn của người nhạc sĩ.

Buổi chiều Thy, My đã tỉnh táo hơn...Tụi mình rủ nhau đi mua sắm cho dì. Đi mãi lên chợ Hương Sơn. Linh, con trai Hường nói:

- Chợ lớn lắm dì à.

Tội nghiệp với cậu bé như vậy chắc là lớn nhất rồi. Tụi mình đi có một vòng là đã hết chỗ đi. Vài gian hàng lớn bán đủ vật dụng thì sắp xếp luộm thuộm. Tụi mình mua đủ thứ, từ ấm, tô, dĩa, chén đến rổ, rá lồng bàn, cho đến cái cối, cái chày, chăn mền... Hình như nhà dì thiếu đủ thứ. Trên đường về tụi mình còn ghé dọc đường mua thêm mấy chục cái bánh lá gai, nổi tiếng ở quê mình. Dì cảm động bảo mấy con mua sắm cho dì y như ngày dì đi lấy chồng. Nhìn dì rồi nghĩ đến mẹ mới thấy mẹ hạnh phúc thật nhiều. Những ngày khổ cực nuôi một bầy con nhỏ đã qua. Bây giờ mẹ sống thật an vui quay quần bên con cháu. Mẹ còn có thời gian đi tập thể dục, đi lễ chùa, thăm viếng bạn bè. Đời sống tinh thần, vật chất đầy đủ nên mẹ trẻ nhiều so với tuổi đời. Dì ít tuổi hơn mẹ, cũng còn khoẻ nhưng trông thì già hơn mẹ nhiều. Thương dì tụi mình ráng làm những gì mình có thể làm được. Mấy đứa quyết định xây cho dì nhà vệ sinh mới để thay thế cho cái nhà xí nhỏ bé ngoài vườn... để dì đỡ vất vả hơn vào những đêm khuya.

Ngày...tháng...năm.

Rồi cũng tới ngày phải xa dì, xa mấy em và các cháu. Lau nhanh những hạt nước mắt. Đoàn tụ rồi chia ly. Định luật của cuộc đời. Không dám quay nhìn lại nhìn dì đang khóc. Cảm ơn dì, cảm ơn các em đã cho mình những ngày bình yên, hạnh phúc trong tình thâm gia đình. Cảm ơn đất quê đã tô đậm thêm trong ta niềm yêu nhớ thiết tha... Cảm ơn bố mẹ đã cho con biết một vùng đất được mang tên quê “nội, ngoại” để con được tự hào rằng bố mẹ mình đã sinh ra và lớn lên nơi đó, để con có quyền tự hào quê mình tuy nghèo nhưng rất xinh đẹp nên thơ. Quê nội, ngoại đã để lại trong mình biết bao yêu thương, gắn bó... Chiếc xe hơi nhỏ đưa tụi mình ra phi trường. Bỏ lại làng mạc sau lưng, bỏ lại cầu Linh Cảm. Ngàn Sao, Ngàn Phố, Sông La, núi Hồng. Ôm mấy em trong vòng tay thêm một lát, thầm thì nhắn gởi “Nhớ chăm sóc dì... Hẹn ngày trở lại...”

Rồi thật nhanh tụi mình bước vào phòng cách ly. Hình như có hạt nước mắt nào đó đang đọng lại trên bờ mi...trong ta lại có thêm một nỗi nhớ!!

(còn tiếp)

Trên dòng sông La

Đường chiều trên quê hương

(Tiếp theo)

Forget me not Dalat


Ngày...tháng...năm...

Cuộc đời con người quả như chim bay!! Mới hôm qua đây mình còn ở Hà Nội. Giờ ở Sài Gòn. Trưa nay lại bay ra Vinh, về thăm quê hương Ông Bà chưa một lần gặp. Sáng nay tụi mình rủ nhau đi ăn phở. Từ hôm về Sài Gòn đến giờ mình đi ăn phở nhiều nơi nhưng chưa bao giờ vào tiệm phở 2000. Sau lúc cựu tổng thống Mỹ vào đây. Tiệm phở nổi tiếng như cồn. Để thoả mãn tính tò mò tụi mình rủ nhau vào ăn cho biết. Tiệm khang trang sạch sẽ nhưng phở thì chả có gì đặc biệt nếu không muốn nói là dở. Có lẽ vì vậy mà tiệm thật thưa khách!

Rời tiệm phở mấy đứa đi vội ra chợ Bến Thành mua thêm ít ký chà bông và vài đòn chả lụa biếu dì Thiện, em của mẹ. Sau đó vội vàng về khách sạn, chuẩn bị ra phi trường. Không nói ra nhưng mình biết cả hai cô em cũng hồi hộp như mình. Lần đầu tiên về thăm quê nhà yêu dấu. Hãng VN Air line tương đối đúng giờ. Lên máy bay lúc 11 giờ 40 thì 12 giờ máy bay cất cánh. Một giờ 55 phút máy bay đáp xuống phi trường Vinh. Đúng là mình đang sống ở thời đại mới có khác. Máy bay phản lực bay thật nhanh. Vừa bước xuống phi trường My gọi điện thoại ngay, chỉ vài phút sau, Tĩnh, chồng Hường đã có mặt. Cậu ta đã chờ sẵn ở phi trường cả tiếng trước. Lấy hành lý chất lên xe xong, Tĩnh hối bác tài đưa mấy bà chị vào một quán cháo ở Vinh và đặc biệt giới thiệu món cháo bồ câu. Bồ câu được hầm trong một hộp bằng thiếc, giống như lon guigoz xưa. Cháo được chưng cách thủy với gạo và đậu xanh. Thấy khá lạ và ăn cũng ngon nữa. Ăn uống xong vội vã lên đường. Nghe nói từ đây về Hương Sơn dài khoảng trăm cây số. Xe lăn bánh, chiếc xe phom phom tiến dần về quê nội, ngoại. Mình thầm thì với bố: “ Bố ơi con đã trở về. Con đang trên đường thăm lại ngôi làng xưa của bố, của mẹ đây... Quê hương ngọt ngào trong yêu thương , nhớ nhung của bố ngày nào. Quê hương mà bố nhắc nhở từng ngày trong những buổi cơm của gia đình. Quê hương mà cho đến những phút gần lìa đời Bố vẫn nuối tiếc nhớ mong. Bố đã không một lần được trở về. Con của bố đang về thăm nhà hộ bố đây. Con sẽ tường trình chuyến “ trẩy” quê bố ạ.”

Chọn một chỗ ngồi sát cửa, dõi mắt nhìn cảnh bên đường. Mình tưởng như mơ! Có bao giờ mình nghĩ rằng có ngày được tận mắt nhìn dòng sông La lững lờ uốn khúc, đỉnh núi Hồng mờ mờ trong sương chiều! Cảnh quê thật yên bình hạnh phúc. Những vườn bắp, những luống rau trải dài xanh ngắt. Ruộng lúa đã gặt xong. Đó đây những chú trâu, bò thong dong gặm cỏ. Gà, vịt lăng xăng nhặt thóc trên đồng hoặc vẫy vùng trên mương. Xe đi qua Ngàn Sao, Ngàn Phố, xe qua Linh Cảm...qua những địa danh quen thuộc mà mình đã nghe mẹ cha nói đến, hoặc trong những bài hát mình thường nghe:“ Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh, nhớ núi Hồng Lĩnh, nhớ dòng sông La, nhớ biển rộng quê ta..” rồi Khe Giao, đèo Ngang- Linh Cảm...những cái tên nghe gắn bó thân tình, quyện chặt lấy nhau.

Xe ngừng trước nhà Hường. Cả nhà ùa ra chào hỏi. May mà tụi mình thuộc vai lớn nên không phải cung kính vòng tay đáp lễ. Dì đang ở nhà không ra được vì đi lại khó khăn. Trong mấy người con dì có Hường là khá nhất. Hường là chị cả trong nhà. Nhà cửa tương đối khang trang, buôn bán tạp hóa cũng đấp đổi qua ngày. Kế Hường là Sơn, Hồ, Anh, Nhật, Mỹ, Nam. Nhật vừa chết năm trước trong một tai nạn xe gắn máy. Nam vì cuộc sống khó khăn phải đi lao động ở nước ngoài để lại vợ và một con còn nhỏ xíu nhìn thấy mà tội. Mỹ thì đang đi làm trong một đồn điền cà phê ở Đắc Lắc, lâu lâu mới về thăm nhà một lần.

Buổi họp mặt đầu tiên, tụi mình chụp chung một tấm hình cả gia đình rồi xuống phụ mấy em xào nấu chuẩn bị cho buổi ăn tối. Cả nhà quay quần trên chiếc chiếu rộng. Ngoài rau xào, thịt gà luộc ( gà đem từ vườn của dì ra làm thịt ) còn có món dê cũng luộc chấm nước mắm. Tụi mình thắc mắc không hiểu sao món thịt dê luộc hoàn toàn không có mùi hôi như ở Mỹ. Bên mình mỗi lần làm lẫu dê hay cà ri...phải biết cách nấu, không thôi ăn không được. Mình hỏi có bí quyết nào mà thịt dê thơm ngon vậy không. Hường lắc đầu, bảo mua ở nhà hàng xóm mang về chỉ việc rửa xong là mang luộc, không cần gia vị, chả có bí quyết gì cả. Thy nói nhỏ vào tai: “ Có bao giờ họ bán thịt cầy không?”

“ Nói bậy, không ai chơi ác vậy đâu ”. Mình trấn an vậy thôi chứ họ có treo “ đầu dê ” làm sao mình biết được.

Ăn uống xong xuôi tụi mình theo mấy em chở vào nhà dì. Dì cũng ở Hương Sơn, chỉ cách xa nhà Hường khoảng trên mười cây số . Xe vừa ngừng ở cửa dì đã lọm khọm bước ra, nước mắt nhạt nhoà ôm các cháu. Sau ngày miền Nam mất, dì có vào Đà Lạt thăm chúng mình. Vậy là trên ba mươi năm mới gặp lại dì. Dì đã trên tám mươi, thua mẹ ba tuổi nhưng trông già hơn mẹ. Tội nhất là lưng dì còng xuống thấp, mỗi lúc di chuyển phải chống tay xuống đất. Ngoài bịnh còng ra, dì rất minh mẫn tinh tường, tai còn nghe rất rõ, tiếng nói dì sang sảng. Sau nhiều năm không gặp có bao nhiêu chuyện để hỏi, để nói, để cười vui cũng như thỉnh thoảng rơi lệ khi nhắc lại chuyện vui buồn. Cả nhà xúm xít bên bếp lửa chuyện trò râm ran. Đến nửa đêm vợ chồng con cái, Sơn, Hồ, Anh... ai về nhà nấy. Mận,vợ của Nam và cu Long con của Mận, thường ngủ chung với Dì phải nhường giường cho tụi mình đi qua nhà Anh ngủ. Tối đó, bốn dì cháu ngủ chung giừờng nhưng có ngủ được đâu. Phần thì lạ nhà, phần vì sợ! Về quê mới nhớ đến bài “Vịnh cảnh nghèo” của Nguyễn Công Trứ “ Thời thái bình cửa thường bỏ ngõ ” Tụi mình càm ràm dì sao không chịu làm cửa nẻo cẩn thận. Dì một mực “ Không răng đâu, dì ở mấy chục năm ni có chi mô, toàn hàng xóm với nhau. Cả xóm không ai có cửa, mình làm một “chắc” dị lắm.” Nghe dì nói vậy nhưng tụi mình vẫn ngán, lỡ nửa đêm ăn trộm tìm đến, chắc chết mất! Trời đêm thật lạnh, mền lại mỏng, mấy chỉ em ngủ không được, còn dì chắc vui vì có cháu về thăm cũng khó chợp mắt nên dì cháu rù rì suốt đêm, kể đủ mọi chuyện rồi cười khúc kha khúc khích.

Ngày...tháng..năm...
Mới bốn năm giờ sáng gà đã gáy râm ran. Nằm nướng thêm một chút chờ ông mặt trời thức dậy. Mình len lén xuống giừờng, đi nhúm lửa đun nước nóng rửa mặt. Quê dì bây giờ hệt như Đà lạt của mình năm chục năm về trước. Nhà vẫn còn nấu bằng củi. Mận khá siêng năng, những ngày nghỉ việc đồng áng cô nàng đã lên rừng đốn khá nhiều củi để dành cho mùa đông. Lúi húi lấy tre làm mồi nhúm. Mình nhớ thưở nhỏ chi lạ. Sáng nào nhà mình cũng thay phiên dậy sớm nấu cơm sáng nhưng đỡ một cái là ở Đà Lạt nhúm lửa bằng củi ngo nên nhóm thật nhanh. Nhóm bằng tre mình phải chẻ tre thật nhỏ mới dễ mồi lửa. Lửa đỏ, mình bỏ thêm củi vào. Đổ thêm nước vào ấm chè dì nấu hôm qua. Mình đun sôi rồi chế vào bình mang lên bỏ vào cái bình giữ ấm được khoét bằng quả dừa khô . Khi thấy lại bình chứa bằng quả dừa khô, cảm thấy vui vui. Thật sự, nếu không thấy lại, cơ hồ mình quên mất đã có thời gia đình mình cũng dùng những vật dụng đơn giản mà dễ thương như vậy. Đánh răng rửa mặt xong mình lấy áo len khoác vào rồi bước ra ngoài. Trời lành lạnh, mình đi một vòng thăm cảnh vườn nhà dì. So với căn nhà bé, lợp tranh của dì. Vườn nhà dì khá rộng. Một lũy tre bao bọc quanh vườn. Vườn sau, dì trồng mấy luống khoai mì, khoai lang và một vạt chè xanh. Dì cũng trồng vài bụi chuối cau. Có một chú bò với bộ lông vàng thật mướt đang nằm khoanh mình bên gốc chuối giương đôi mắt to nhìn. “ tắc” nhanh tay mình thu vào ống kính đôi mắt to ngơ ngác của chú bò. Mình ra vườn trước. Vườn thật nhiều cam sành, bưởi, có một dây trầu lá xanh tươi tốt và một vài gốc cau cao chi chít trái. Nghe nói quanh năm suốt tháng dì không phải tốn tiền mua trầu cau mà còn có thể hái bán, phụ thêm chi tiêu cho gia đình. Phía bên hông nhà có vài cây khế, cây mận, nghe nói khế nhà dì rất ngọt nhưng thật tiếc năm nay cây cho trái sớm, tụi mình không được thưởng thức khế ngọt nhà dì. Đi lần ra cuối vườn mình còn “ chớp” được mấy đụn rơm và một chuồng trâu, vài cây chuối trồng cạnh chuồng trâu với những nảy chuối sai oằn.

- Bà Thiện ơi! Mời ả qua nhà “mền” uống “ nác” mới.

Bà Mai, người hàng xóm tối qua có đến thăm tụi mình đang đứng sát cạnh vườn giữa đám tre( có con đường mòn do đi lại nhiều lần đã vạt ra thành một lối đi lớn) gióng tiếng thật to.

Thiện là tên của chồng dì . Dượng đã qua đời lâu lắm. Dì của mình đã thức dậy đang rải lúa cho đàn gà cả mấy chục con, chúng đang dành nhau ăn trên sân vuông trước nhà dì. Nghe bà hàng xóm gọi. Dì vội vàng ngưng tay , lớn tiếng trả lời:
- Bữa ni “ mền ” qua nhà ả không được mô. Thôi bữa khác hí?

Chạy lại phụ dì cho gà ăn. Mình hỏi Dì:
- Dì ơi. Ở đây vẫn giữ tục lệ mời nhau uống nước vào buổi sáng hở dì?.
- Ừ. Từ lúc dì lớn lên đến giờ vẫn rứa. Khi thì nhà ni, lúc nhà tê thay phiên nhau nấu nác chè mới, mời nhau.

Thật vui, kỷ niệm xưa sống lại. Hèn gì bố và những người cùng quê của bố đã mang tập tục tốt đẹp ấy từ quê hương vào. Trong xóm mình, nhà nào cũng trồng chè xanh. Nhà ít thì có vài bụi. Nhà nhiều như nhà mình có một vạt trước nhà vài chục cây, phía sau vườn thêm hai dãy khoảng vài mươi cây nữa, tha hồ uống. Trong xóm thay phiên nhau nấu nước chè xanh mời bà con lối xóm. Hôm nào đến phiên nhà mình. Mẹ hoặc mình thức dậy sớm ra vườn cắt một bó chè tươi khá lớn, mang vaò rửa đi, rửa lại thật sạch. Bẻ gấp chè lại, dồn vào trong ấm thật chặt, đổ nước vào đun sôi. Chờ cho nước chè biến thành màu xanh. Nếu nấu không chín tới nước sẽ không đủ xanh, nước chè sẽ có vị tanh khó uống. Không canh kịp lúc, nước sẽ sậm màu, màu nước nhìn không đẹp, nước uống sẽ không ngon. Khi nước chín, mang ấm nước chắt vào một ấm nhỏ . Nước này gọi là nước cốt để dành cho gia chủ dùng vào ngày hôm sau. Phần nước còn lại trong ấm, cho thêm đầy ấm, bỏ lên bếp đun sôi thêm vài trào, lúc ấy mới chế ra ly đãi khách. Khi những ly chè xanh được mang ra, khách lần lượt bưng lên hớp một ngụm nhỏ nhâm nhi khen, chê. Cách nấu xem đơn giản nhưng thật ra không phải dễ. Người nấu chè cũng phải có kinh nghiệm mới có được một ấm trà ngon. Nhiều khi cũng một loại chè ấy, cũng cái ấm như vậy nhưng người nấu ra hoàn toàn khác nhau. Để có một ấm chè ngon, chúng mình phải ước chừng cân lượng chè, nước khi nấu, canh lửa củi đều (đặc biệt nếu nấu bằng nước mưa nước chè lại càng ngon hơn nữa). Bởi vậy khi được phân công nấu chè đãi khách là mình ngồi dí ở bếp chả dám đi đâu. Trong tiệc chè, chuyện thời sự được mang ra bàn luận, mọi người cùng nghe chung tin tức từ đài phát thanh. Mấy cụ thường xuyên nghe đài BBC, đài VOA... hoặc nghe tin tức chiến sự từ đài điạ phương hoặc nhiều khi cũng xúm lại giải một đề toán khó, bàn luận một bài luận văn trong trong những cuộc thi vào đệ thất. Bên ly nước, bên ấm chè xanh cả một quê hương xa xôi cũng được mọi người gợi lại với nhiều nhớ mong, hoài cảm… Giờ, những người cùng tuổi bố mình đã cùng với người ra đi về bên kia thế giới. Nhóm trẻ ngày xưa biết được tập quán dễ thương này như mình đã bỏ quê hương mà đi. Những người ở lại cũng bận bịu đa đoan với cuộc sống. Làm gì có được những giây phút quay quần bên ấm trà, ly nước mới, thắt chặt mối thâm tình. Và chính nơi quê hương này của mẹ, cuả dì, của mình... chỉ một thời gian sau, cũng có thể không ai còn nhớ nấu ấm nước chè xanh mời nhau trong buổi đầu của ngày mới. Với một hoài niệm và cũng với niềm ước mong, mình nói với dì: “ Dì ơi nhớ nói với Sơn, Hồ, Anh... và bè bạn của họ ở đây, nhớ giữ cái lệ “ nấu nác chè xanh mời nhau mỗi buổi sáng ” như ri nghe dì. Dì cười: “ Dì cũng muốn rứa nhưng không biết khi dì chết rồi tụi hắn có nhớ làm rứa không.” Mình ngậm ngùi, lời nói của dì thật đúng...không hẳn những gì mình nghĩ là hay, là tốt đẹp, mọi người cũng có cảm nghĩ giống mình và dù có thật sự tốt đẹp chưa hẳn đã bền vững với thời gian. Tự dưng mình thấy buồn mênh mang...

(Còn tiếp)
Forget me not Dalat


www.datque.com

Thursday, February 18, 2010

V N D K Thăm Vịnh Hạ Long

Thăm Vịnh Hạ Long
Ngày...Tháng... năm...
Buổi sáng thức dậy sớm ra balcon nhìn xuống đường, Hà Nội rộn ràng trở giấc. Xe cộ nhộn nhịp, trên đường phố kẻ mua, người bán tấp nập.. cũng giống như Sài Gòn, buổi sáng Hà Nội thật sôi động ...Một ngày mới bắt đầu cho mọi người...và ...cho mì̀nh. Hôm nay tụi mình đi thăm Vịnh Hạ Long.
Cô hướng dẫn ở khách sạn cho biết tám giờ rưỡi xe đến, mới bảy rưỡi tụi mình đã chuẩn bị xong. Hai chị em thấy còn sớm nên quyết định ăn sáng ở khách sạn. Sáng nào khách sạn cũng cho ăn free theo dạng “ all you can eat”. Đa số là ăn các món ăn Tây, Mỹ... Đặc biệt có thêm món Phở Việt Nam. Mình ăn chút chút bánh mì với bơ. My chọn bánh mì “ ốp la”. Không thể nào bỏ qua món “ Quốc hồn, Quốc túy” được hai đứa ăn thêm mỗi người một tô phở. Bánh phở mềm, nước dùng trong, chỉ có vỏn vẹn vài miếng tái nhưng ngon không kém ngoài phố. Ăn xong tụi mình ra phòng khách đợi xe đến. Cũng không quên Email về nhà báo tin đang ở Hà Nội.
Khoảng hơn tám rưỡi, xe chở khách đi tham quan đến. Trên xe đã có hai gia đình, một cặp người Úc và một gia đình gồm bốn người, hai vợ chồng, hai đứa con, một trai, một gái người Đức. Sau khi giới thiệu về mình, chú hướng dẫn viên Quỳnh nói qua về hãng du lịch cậu phục vụ, lộ trình mình đi qua, thời gian đi, đến và trở về. Thật may mắn mì̀nh và My được ngồi ghế trước cạnh bác tài. Vậy là tha hồ ngắm cảnh và chụp hình nhá!
Chiếc xe van khoảng mười hai, mười ba chỗ ngồi, chỉ chở mười người nên ai cũng có vẻ thoải mái. Bác tài trẻ tên Khôi, khá bảnh trai, chỉ tội răng cỏ vàng khè, ám khói, có lẽ tại hút thuốc nhiều. Bác tài cũng là người thích nói chuyện, qua giọng nói mình đoán ngay ra là người Hà Đông. Thật Bác không ngờ mình đoán đúng vậy. Có khó gì đâu âm hưởng, chất giọng ấy, mình nghe quen từ hồi nhỏ mờ! Quỳnh là dân Hà Nam, mình cũng đoán đúng nốt. Hà Nam, Phủ “Ní” là quê của ông chồng của mình mà "nị". Quỳnh đang là sinh viên đại học, cậu bé đi làm thêm vào những ngày nghỉ. Quỳnh nói tiếng Anh thật hay, nói theo kiểu miền Bắc là rất “ chuẩn”. Có hai đồng hương vui tính trên chặng đường dài cũng làm tụi mình đỡ chán.
Xe từ từ ra khỏi Hà Nội rồi đến Gia Lâm, Hưng Yên. Hai bên đường là những cánh đồng trơ rạ... xa xa những đám khói vươn lên từ những đám rạ khô. Cảnh đồng quê lâu ngày được thấy lại sao dễ thương thế! Cũng có một vài đám ruộng mạ vừa lên, xanh xanh một vùng... Xen kẽ ruộng là những thửa vườn trồng hoa cúc, hoa vạn thọ... Có lẽ mùa này là mùa thu hoạch nên thỉnh thoảng mình lại thấy những thanh niên chở những bó hoa đủ màu sắc trên đường hướng về phía Hà Nội. Đến Hưng Yên, bảng chỉ dẫn cho biết, nếu quẹo trái sẽ đi Hà Bắc, Bắc Ninh. Nếu quẹo phải sẽ đi Phả Lại, Quảng Ninh.
Trước khi rẽ phải để đi về hướng Quảng Ninh. Xe ngừng lại trước một cửa hàng cho hành khách nghỉ chân. Có lẽ đây là một cửa hàng Quốc doanh xưa, giờ đã vào tay tư nhân nên trong cửa hàng bày bán rất nhiều thứ, từ thức ăn, giải khát cho đến chén bát, đồ lưu niệm. Những vật lưu niệm phần đông là tranh thêu và đồ sứ Đông Triều. Tụi mình đi quanh quanh xem chứ không mua gì cả vì thấy không tiện mang theo.
Tiếp tục hành trình, xe đi vào địa phận Đông Triều. Nhớ những bài học Địa lý xưa, mình như thuộc nằm lòng câu “ Đông Triều có nhiều mỏ than ”. Ngoài mỏ than ra Đông Triều còn có rất nhiều núi đá vôi đang thời kỳ khai thác. Ở đây có khá nhiều cơ sở làm đồ sứ Đông Triều. Xe đi qua địa phận Đông Triều đường phố rộng, sạch. Nhà cửa ở đây t̀hật khang trang. Những ngôi nhà đồ sộ, xây dựng theo lối mới. Đa số những ngôi nhà có những cột đăng ten cao, lối kiến trúc gần như kiểu nhà thờ Hồi giáo. Nghe nói dân ở đây vượt biên nhiều, con cháu gởi tiền về cho thân nhân xây nhà, sửa sang mộ phần nên có những nghĩa trang thật đẹp,xây thật đắt tiền. Trên đường đi qua Đông Triều, Uông Bí mình cũng thấy có thật nhiều chùa miếu, cầu cống... Cầu Yên Lãng,Trường Bạch , Đầm Rồng, Bảo Nghi...những cái tên nghe thật quen, thật dễ thương. Có lẽ mình đọc đâu đó trong vài cuốn truyện. Từ Uông Bí rẽ phải đi Hải Phòng, còn đi thẳng sẽ đến Vịnh Hạ Long. Bác tài Khôi vẫn giữ tốc độ vừa phải, lái xe thật an toàn... chẳng mấy chốc, xe đã đến địa điểm đón tàu ra Vịnh.
Chiếc xe du lịch thả tụi mình xuống địa điểm mua vé, xếp hàng lên tàu. Bác tài chào từ giã ... hẹn tối gặp lại. Quỳnh mỉm cười bảo bọn mình: “ Bố đi tìm chỗ ngủ để tối có sức lái bọn mình về đấy”
Vì đi chung với đoàn nên tụi mình không phải chen chúc mua vé, chỉ nhanh chân theo Quỳnh qua điểm soát vé để lên tàu. Con tàu mình đi sơn màu nâu vàng, bề ngoài con tàu hình như được phết một lớp dầu rái cá. Tàu có bề dài khoảng hai mươi mét, bề ngang khoảng năm mét, trong ngoài đều mới, là tàu thuê bao nên chỉ chở nhóm chúng mình. Sau khi yên vị trên tàu là mình chạy ra chỗ khoang rộng rãi nhất, ngồi sát cửa sổ nhìn ra ngoài. Thuyền đậu san sát, to có, nhỏ có đủ hình đủ kiểu, đủ màu sắc, tàu mang nhiều tên khá thơ mộng. Đây là anh Bái Tử Long, kia là nàng Bài Thơ, đằng này là anh Thắng Lợi....Tàu nổ máy, từ từ rời bến. Sương mù mờ mờ che những dãy núi xa xa. Tàu lướt sóng, càng ra xa hình như trời trong hơn, những hòn đảo càng gần trong tầm mắt mình. Mình ngẩn ngơ trước cảnh trời mây nước mênh mông. Hàng trăm, hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ với nhiều hình dạng, nhiều màu sắc. Thiên nhiên đã ban cho quê hương mình một thiên nhiên hùng vĩ nên thơ đến vậy! Mình say sưa ngắm những công trình hóa công tạo dựng. Những người khách ngoại quốc cũng không ngớt trầm trồ. Đây là hòn đảo giống như một con rùa khổng lồ. Kia là hình một chú voi đang phủ phục. Đây là hòn núi giống hình một cô gái đang ngước mắt nhìn trời cao mênh mông. Ô kì̀a! Có một dãy núi giống như một đàn khủng long đang vục đầu uống nước...hoặc có đảo y như là một chú trâu to lớn đang trầm mình đưa chiếc sừng cong lên đùa với sóng...Thật là muôn hình, muôn vẻ! Thiên hình vạn trạng! Tàu đi ngang qua những hòn đảo mình còn thấy những ngôi chùa thật đẹp, cất chót vót trên đỉnh núi lại càng thấy tiếc không có cơ hội viếng thăm. Rồi lòng mình chợt chùng xuống khi thuyền đi ngang qua những làng chài mà người dân phải sống trên những chiếc nóp, những chiếc thuyền nhỏ mỏng manh, xơ xác, nghèo nàn. Đúng là những mảnh đời nghèo trên sóng nước!
Đang say sưa ngắm cảnh trời mây nước thì nhà bếp đã chuẩn bị xong cho bữa ăn trưa. Bữa ăn quá tuyệt vời với hải sản tươi, tôm chiên, mực chiên, ngọt lịm. Cá hấp hành. Rau xào với nấm và hải sản... Chỉ đóng chưa tới ba chục đô cho nguyên một chuyến tham quan mà phục vụ như vậy quả không chê vào đâu được. Quỳnh cùng ngồi ăn chung với chúng mình, đồng thời cũng đưa mắt dõi theo nhóm khách ngoại quốc cũng đang thích thú thưởng thức những món ăn đặc sản trên tàu. Họ co ́ vẻ enjoy hơn vì đã order thêm vài chai rượu bia, tụi mình cũng tự đãi thêm một vài lon nước ngọt. Ở đây chỉ có bia, rượu nước ngọt là phải trả thêm tiền. Có điều coca, xá xị ở đây thật dở!
Chuyến đi dài cả nửa ngày ai cũng đói bụng cọng với thêm thức ăn thật ngon nên bữa ăn của chúng mình kết thúc khá nhanh trước khi tàu dừng chân trước một hang động - địa điểm thăm viếng đầu tiên trong chuyến thăm Vịnh Hạ Long.
Hang Sửng Sốt
Đúng là hang “Sửng Sốt”. Mình sửng sốt nhìn chiều cao cuả hang rồi chậm chạp bước lên theo những bậc tam cấp đã làm sẵn, vừa đi vừa nghĩ lẩn thẩn: “ Hẳn người đầu tiên khám phá ra cái hang này chắc phải khó khăn lắm mới vào được.” Nhóm đồng hành của mình đi nhanh quá. Mình vừa chụp hình vừa ráng bước theo, đôi chân mỏi rã rời. Đi tham quan mà đi như “ăn cướp”, mình đâu có thì giờ chụp những cảnh đẹp trên đường đến hang. Nghĩ vậy nhưng không muốn mọi người bực mình chờ đợi nên mình phải bám riết người trong đoàn. Chả biết bước bao nhiêu nấc thang mới đặt chân đến cửa hang. Đi vào động theo chiều đi xuống dốc nên di chuyển dễ dàng hơn. Vì là địa điểm du lịch nên chính quyền đã làm những lối đi khá dễ dàng. Trong động dù ít nhiều có bàn tay người nhúng vào nhưng dù thế vẫn không mất đi vẻ thiên nhiên của nó. Quả thật tai nghe không bằng mắt thấy. Trong động có nhiều tảng đá mang những hình thù, màu sắc rất đặc biệt, đẹp vô cùng, tha hồ cho du khách chụp hình. Ở đây bạn cũng có thể nhìn những tảng đá với nhiều tưởng tượng, đá có hình con rồng, hình con lân,con gấu, hình cá voi, hình mỹ nữ...Không có nhiều thời gian nên chú hướng dẫn viên hối mọi người ra về để tham gia mục lái “ Kayak” trên biển. Quỳnh dẫn chúng mình theo một lối đi khác để ra khỏi động.
Chiếc thuyền nãy giờ “cắm sào đứng đợi” lại nhổ neo đi tiếp đưa tụi mình đến điểm tập trung “ Kayak . Nhóm du khách người Úc và Đức vừa đủ cho hai người một “Kayak” .Quỳnh đi chung với My, mình đi với Thiện, cậu bé là người chuyên môn sắp xếp đưa “K” vào và ra “ bến” tình nguyện lái chung một chiếc “ K.” với mình. Mình và My chưa bao giờ biết chèo thuyền nên cũng yên tâm đi với hai cậu bé đã rành sông nước. Sau khi mặc mỗi người một chiếc áo phao, mang theo chiếc máy ảnh là mình leo xuống thuyền. Cậu bé Thiện dễ thương nói :“ Để cháu chèo cho, Cô cứ yên tâm chụp ảnh.” Chiếc K nhỏ đưa chúng mình từ từ xa bờ, tiến gần hơn những đảo. Nhờ chiếc thuyền nhỏ nên chúng mình len lỏi qua những đảo dễ dàng, đi đến gần những thuyền bè đi lại trên biển, đi ngang qua những khu dân chài sống tạm bợ nơi đây. Họ sống trên những chiếc thuyền nhỏ che chắn bằng những mảng ny lông, những miếng carton... Cậu bé chèo thuyền cho mình cũng có cuộc sống thiếu thốn khổ cực như thế. Cha mẹ cậu vốn làm ruộng ở Hải Dương, cuộc sống khó khăn, thiếu hụt lại thêm bố Thiện say sưa tối ngày. Cậu bé được mẹ gởi ra Quảng Ninh ở với một người bà con xa, ngày ngày làm công việc đưa “ K” vào bến. Cậu bé mới mười tuổi đầu, chưa hề đến trường nhưng ăn nói rất lễ phép. Sự học hỏi được từ cuộc sống khiến cậu bé già dặn trước tuổi.
- Cháu có thích công việc của cháu đang làm không?
- Dù không thích cháu cũng phải làm, vì nó nuôi sống cháu.
- Mỗi ngày cháu làm được bao nhiêu?
- Mười ngàn đồng Cô ạ.
Mười ngàn đồng với một công việc khổ nhọc như thế này , tôi chợt thấy thương cậu bé quá.
- Cô ơi, cô ở trong Nam ra hả.?
- Ừm... Tôi ậm ừ.
- Nghe nói Sài Gòn đông người lắm Cô nhẩy?
- Đông hơn Hà Nội một ít.
- Cháu có biết Hà Nội đâu.!
- Ủa , cháu chưa hề lên Hà Nội.?
- Vâng , ngoài quê cháu ra cháu chỉ biết nơi này.
Tôi lẩn thẩn hỏi cậu bé đủ mọi chuyện
- Cháu thích mấy ngọn núi cao cao kia hay cháu thích biển?
Cậu bé ngập ngừng:
- Biển cho cháu tôm cá để ăn nhưng nhiều lúc biển dữ dằn lật úp thuyền của chúng cháu. Chúng cháu phải chạy vào hang núp mới sống được. Núi che chắn cho chúng cháu. Có núi che thuyền chúng cháu, vì vậy nhiều lúc chúng cháu thoát được những cơn bão dữ... Núi cho chúng cháu củi, cho chúng cháu thịt rừng... Nhưng nếu nghĩ kỹ chúng cháu cần biển hơn. Rồi cậu bé mỉm cười “ Như lúc này đây, nhờ có biển cháu mới mang cô đi thăm núi được đấy”.
Yên lặng một lúc cậu bé đáp:
- Cháu yêu cả hai cô ạ. Yêu núi, yêu biển.
Tôi mỉm cười phụ họa:
- Cô giống cháu. Cô yêu cả hai.
Rồi hai chúng tôi cùng cười .
Thấy cậu bé dễ thương quá tôi lại hỏi tiếp
- Cháu có mơ ước một điều gì không hở?
- Cháu à? Cháu mơ được đi học
- Cháu chưa từng đến trường sao?
- Chưa Cô ạ!
Câu trả lời của cậu bé du tôi vào nỗi suy nghĩ miên man. Nhớ những ngày sau bảy lăm. “ Nhà nước ta” đã cực lực bắt dân xóa nạn mù chữ. Thế mà hơn ba mươi năm qua, giữa lòng XHCN vẫn còn những cậu bé con chỉ mơ được đi học.
- Cháu có thể nhờ mấy anh chị lớn lớn ở đây bày cho cháu học . Mấy anh chị ở đây biết chữ không cháu?
- Chỉ vài người biết thôi cô ạ.
- Cô nghĩ nếu cháu chịu khó, cháu mua sách vở, lúc có giờ rảnh nhờ các anh chị bày đánh vần. Từ từ cháu có thể đọc được, không khó lắm đâu. Quan trọng là phải cố gắng cháu ạ.
- Vâng, cháu cũng đã nghĩ đến điều ấy. Nhưng bây giờ cháu nghĩ đến để dành tiền giúp mẹ cháu trước đã.
Một cậu bé chỉ vừa mười tuổi đã biết lo lắng cho cha mẹ thật sự khiến mình khâm phục.
Thuyền của chúng tôi vẫn trôi, đôi tay cậu bé điêu luyện, nhịp nhàng đưa con truyền lướt sóng. Ngước nhìn trời cao mênh mông, nhìn những hòn đảo xanh nổi bật giữa biển xanh bao la, nhìn lại con thuyền bé nhỏ hai cô cháu đang lênh đênh xa bờ thăm thẳm, thấy mình quá nhỏ nhoi, quá mong manh... Lại lẩn thẩn nghĩ xa hơn. “ Nếu chẳng may có một cơn bão lớn ập đến lúc này, cuốn mình ra biển...thì chúng mình sẽ ra sao nhỉ?”
Đi vòng vòng khá lâu, chụp được khá nhiều hình. Chiếc “ K” bé con đưa chúng mình lại điểm xuất phát. Luyến lưu chia tay cậu bé, mình không quên trao cho Thiện và vài bạn nhỏ ở đây một phần ba số tiền trong số ba trăm đô bé Tâm gởi
- Cháu cầm lấy mua sách vở học nhé!
Tâm thật ngoan trước khi mình đi, cô bé đã trao tay mẹ: “ Con để dành được chừng này. Về quê, mẹ chia giùm con cho những ai mà mẹ thấy cần trao nghe mẹ.”
Trước lúc chia tay, cậu bé xúc động như sắp phải xa một người thân yêu lắm.
- Cô ơi ! Bao giờ cô lại đến?
- Cô cũng không biết nữa cháu à. Bao giờ sắp xếp được thời gian cô sẽ về thăm.
Giã từ cậu bé, giã từ những bé con “ trên sóng nước Hạ Long” lòng buồn buồn, tự hỏi : “ Biết đến bao giờ? ”.
“ Thời gian thắm thoát thoi đưa” mặt trời từ từ xuống, tụi mình trở về “ thuyền mẹ” để trở lại đất liền. Biển nước mênh mông, mặt trời rải những tia nắng bạc, nắng vàng trên mặt biển xanh bao la. Hoàng hôn nhuộm vàng mặt biển đẹp vô cùng. Đã đi nhiều nơi, được thăm nhiều thắng cảnh, từ Hạ Uy Di nắng ấm đến vùng vịnh Mexico, những vùng vịnh Đông Bắc, Thái Bình Dương.... Không!. Thật không nơi nào đẹp bằng Hạ Long khi chiều xuống. Mình không đủ ngôn từ để diễn tả được cái đẹp ở nơi này, chỉ biết nói lên niềm tự hào về một quê hương yêu dấu. Đẹp vô cùng đất nước ta ơi!
Forget Me Not Dalat