Saturday, April 10, 2010

VNDK Về Đà Lạt

(Tiếp theo)
Forget Me Not Đalat
Về Đà Lạt

Ngày...tháng ...năm...
Vẫn như những buổi sáng ở Sài Gòn, mình dậy sớm ra ban công nhìn xuống đường ngắm xe, ngắm người đi phố sớm. Con đường Bùi Thị Xuân lúc xưa là đường Võ Tánh. Sau bao nhiêu năm đường phố thêm nhà, thêm nhiều khách sạn. Bên kia đường là chủng viện Don Bosco. Mình không biết hiện nay là cơ quan nào nhưng bề ngoài vẫn y như xưa, không có gì thay đổi. Đang ngắm phố phường ban sáng thì nhận điện thoại của Dung bảo mình chuẩn bị trước, cô nàng sẽ ra đón đi ăn sáng. Một chốc, Dung đến với Phúc, có thêm vợ chồng Thảo Hải đi cùng. Theo đường Bùi Thị Xuân, xe bon bon hướng về Đa Thiện. Hai bên đường hàng quán mọc lên quá nhiều. Đi ngang qua ngôi nhà đỏ của Ông Bửu Trọng ngày xưa, mình không còn nhận ra con đường rẽ vào nhà mình. Ở đây thay đổi bắt chóng mặt. Ngưng xe ở chiếc quán nhỏ trên đường Phù Đổng, tụi mình chọn một bàn ở ngoài . Quán bé tí, phía trước kê được hai chiếc bàn thấp lè tè, bên trong cũng có khoảng hai ba bàn. Vợ của Liệu chỉ bán hai món: bún riêu và mì Quảng. Mình chọn bún riêu. Nhìn đĩa rau ngon quá, quên cả việc cấm kỵ. Rau cũng ngon, nước bún tuyệt vời. Vậy là món ăn đầu tiên ở quán ăn tại Đà Lạt đã không làm mình thất vọng.
Ăn xong, Hải đi làm, tụi mình nhờ Dung gọi taxi đi thăm mộ. Khu mả thánh ngày xưa ở trên ngọn đồi sát cạnh đường Nguyễn Hoàng đã bị giải tỏa, đa số mộ cũ đã được thân nhân bốc mộ di chuyển đến ngọn đồi giữa ấp Thánh Mẫu và Đa Thiện. Chúng mình đi loanh quanh một chặp mới tìm ra mộ bố và em mình.Tự dưng cảm thấy choáng váng mặt mày, đầu đau như búa bổ phải ngồi xuống lấy tay xoa nhẹ vào thái dương và mát sa lên da đầu. Thầm khấn với bố với em mình đã về thăm như điều từng hứa. Có cảm giác em như đang ở bên mình, hình như em chưa siêu thoát. Mộ bố và em khá sạch sẽ, có lẽ vẫn được thường xuyên thăm viếng. Những nụ hoa hồng nhỏ, những nụ hoa vàng lấm tấm trên mộ làm cho ngôi mộ thêm dễ thương. Em rất yêu hoa. Hẳn em hài lòng với ngôi nhà em đang trú ngụ? Nơi miền xa xăm ấy có hai bố con gần gũi nhau, dù sao cũng đỡ hơn anh hai. Không biết anh đang ở nơi nào? Một hải đảo xa xôi? (nghĩ để mà hy vọng anh còn sống) hoặc giờ này hồn anh đang lang thang trên khắp nẻo đường đất nước, đang bay bỗng đến những miền đất lạ xa như ước mơ của anh. Anh mê du lịch hơn tất cả mọi điều? Cũng mong anh thường xuyên đến thăm hai người thân yêu đang nằm yên nơi này cho ấm áp. Ngồi bên cạnh nơi yên nghỉ của bố và em rất lâu vì mình không biết bao giờ mới trở lại thăm lần nữa. Tẩn mẩn nhổ những cành cỏ dại trên mộ không thôi tụi hắn lại mọc lan lấn lướt đám hoa vàng của em, thấy nhớ em quá đổi. Cô bé là cô em mình gần gũi thương yêu nhất...Nhổ cỏ xong, chúng mình thắp nhang cho bố, cho em, cho những ngôi mộ chung quanh. Cũng không quên hai ghé thăm mộ ba mẹ Dung, thăm mộ bác Bảo, bác Tứ. Mộ phần của ba mẹ Dung thật đẹp. Chỉ riêng mộ bác Tứ cỏ giăng chằng chịt, cỏ vươn cao hơn cả bia mộ. Chả biết tụi nhỏ làm gì mà không thường xuyên chăm sóc mộ phần ba mẹ. Đứng bên mộ bác Tứ, niềm xúc động trào dâng, không khác gì khi mình bên mộ bố mình và em. Nhớ ngày giã từ Đà Lạt, đi gần như trốn chạy, chỉ bác trai đưa tụi mình ra bến xe. Bác khóc nức nở như đưa tiễn những đứa con ruột thịt. Xe lăn bánh, nhìn lại bác vẫn đứng đấy, dáng gầy cô đơn nhìn theo bọn mình. Mình chợt oà khóc và chợt biết đây là lần cuối cùng được trông thấy bác .Giờ này hai bác cũng đã ở một nơi thật bình yên. Cầu mong bác cũng vẫn là người bạn láng giềng thân thiết nhất của bố mình nơi cõi khác ấy...
Khu mả thánh nằm không xa nhà bác Tứ bao nhiêu nên sau khi đi thăm mộ tụi mình ghé thăm Đức con bác. Hai vợ chồng Đức xây một căn nhà khá lớn phía vườn sau nhà cũ, sát cạnh đường đi. Tâm, con út bác đang ở căn nhà cũ. Vợ Đức ở nhà giữ mấy trẻ con hàng xóm. Cuộc sống chắc cũng thong thả. Rời nhà vợ chồng Đức, tụi mình ghé thăm chùa Linh Giác nhưng không có ai ở chùa nên đành phải đi về.
Buổi chiều tụi mình hẹn đến nhà Phúc, Vị dẫn hai đứa đi ăn, mua sắm đồ đạc. Hai đứa dẫn tụi mình xuống khu Ánh Sáng ăn bánh bèo. Chiếc quán nhỏ xíu, bàn ghế thấp chủn nhưng... bánh bèo tôm chấy, bánh ít ram, bánh nậm, bột lọc trong quán đều ngon. Tụi mình gọi một dĩa thập cẩm để món nào cũng được nếm thử cả. Ăn bánh xong, mấy dì cháu lang thang ra Hồ Xuân Hương. Đang ngồi ngắm cảnh thấy một bà bán đậu hũ đi ngang qua, tụi mình vội vàng ngoắt lại. Hên quá, lại có dịp ăn món đậu hũ ưa thích. Bà bán đậu hũ ngày nay cũng không khác gì những bà bán đậu ngày xưa, vẫn đôi quang gánh, một bên là chiếc nồi đựng đậu hũ, một bên là chiếc kệ nhỏ, phần trên úp vài cái chén, phần dưới để một cái chậu nhỏ chứa nước rửa chén, trong chậu nước để vài nhánh lá cây để khi gánh đi, nước không sánh ra ngoài. Khách ăn xong bà nhúng những cái chén dơ vào trong chậu, tráng sơ sơ, rồi lấy giẻ lau khô úp vào chạn chén. Ngày xưa mình đã từng thắc mắc... Chiếc khăn lau qua bao nhiêu lần bẩn như vậy mà sao khi ăn vào mình vẫn không bị bịnh? Còn thau nước rửa chén, thỉnh thoảng mình có thấy bà hàng thay nước khi bà dừng lại ở một căn nhà nào đó. Nói chuyện vệ sinh, về ăn uống ở Việt Nam thì dù qua bao nhiêu năm vẫn không thay đổi mấy nhưng...nói theo thói quen của nhiều người “ có chết chóc gì đâu”... bởi thế mấy dì cháu đều vui vẻ dùng thêm chén thứ hai.
Chiều xuống, mặt hồ lung linh gợn sóng...trên hồ một chiếc thuyền con và người thợ câu đang nhẹ nhàng buông lưới, dáng điệu thong dong nhàn tản...người Đà Lạt lúc nào cũng mang cái dáng dấp hiền hoà, thong thả thật dễ thương ấy. Khoác tay nhau tụi mình thong thả dạo quanh hồ trong cái se lạnh của phố núi vào đông. Yêu làm sao cái không gian quen thuộc vừa tìm lại....Đà Lạt ơi ta đang ở bên em!

No comments: